Thời Điểm Lịch Sử 

Tiến Vào

NGÀN NĂM THỨ BA

 

N

gàn năm thứ ba đang đến (“Tertio Millennio Adveniente) với chung lịch sử loài người và với riêng Kitô giáo. (Thật ra, khi cuốn sách này xuất bản thì chúng ta đã thực sự) bước vào một thời điểm mới, hoàn toàn mới, đó là một Thời Điểm Hồng Aân, thời điểm sau đúng 2000 năm Thiên Chúa mạc khải tình yêu thần linh vô cùng toàn hảo của Ngài ra cho loài người, hay nói một cách vắn gọn song có vẻ romantic hơn, tức là Thiên Chúa tỏ tình với loài người, qua Mầu Nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc của Chúa Giêsu Kitô, Con Ngài.

 

Thế nhưng, đối với “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn.4:8,16) “làm việc cho tới nay” (Jn.5:17) thì lúc nào cũng là Thời Điểm Hồng Aân, vì lúc nào Ngài cũng yêu thương, lúc nào Ngài cũng muốn ban ơn, cũng “muốn mọi người nhận biết chân lý và được cứu rỗi” (1Tim.2:4). Do đó, chỉ có loài người chúng ta vốn “yêu tối tăm hơn ánh sáng” (Jn.3:19) có nhận ra tình Ngài yêu thương và có “yêu mến Thiên Chúa vì Ngài là Đấng yêu chúng ta trước” (1Jn.4:19) hay chăng, thì thời điểm đúng 2000 năm cứu chuộc này mới thực sự là một Thời Điểm Hồng Aân cho loài người trần tục chúng ta và của Kitô hữu tin tưởng chúng ta, bằng không nó cũng sẽ qua đi giống hai ngàn năm trước như đối với 97% dân số Á Châu ngoài Kitô giáo hiện nay.

 

Như thế, bất cứ lúc nào trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, dù chúng ta là dân ngoại hay Kitô hữu, nhận ra tình yêu Thiên Chúa và trở về với Ngài thì đó là Thời Điểm Hồng Aân. Tuy nhiên, Năm 2000 là một Thời Điểm Hồng Aân hết sức đặc biệt và hơn bao giờ hết, bởi vì đó là một Năm Thánh (bắt đầu có từ thời Đức Bônifaciô VIII năm 1300), một biến cố chung của Kitô giáo, một cuộc mừng kỷ niệm đại thể (the great jubilee) của toàn thể Giáo Hội Chúa Kitô, được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II khởi xướng ngay từ khi ngài mới bắt đầu chăn dắt Giáo Hội hoàn vũ (qua Thông Điệp “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” ngày 4-3-1979) và phác họa chương trình dọn mừng (qua Tông Thư “Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến”, 10-11-1994), với mục đích là để giúp  con cái mình có dịp lãnh nhận tối đa Hồng Aân Thiên Chúa:

 

        Đối với Giáo Hội, thực sự việc mừng kỷ niệm chính là việc mừng năm hồng ân này của Thiên Chúa (‘năm hồng ân’ được tiên tri Isaia nói đến), một năm thứ tha các tội lỗi cùng các hình phạt bởi đó mà ra, một năm hòa giải sự tranh giành giữa các thành phần, một năm cải thiện gấp bội và làm việc thống hối theo bí tích cũng như không theo bí tích. Truyền thống của các năm mừng kỷ niệm gồm có việc ban những ân xá rộng rãi hơn những lúc khác... Vào những dịp này, Giáo Hội công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, và Giáo Hội cố gắng làm sao cho tất cả mọi tín hữu có thể được lợi ích bởi hồng ân ấy”.

 

(Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến TT/NNTBĐĐ, đoạn 14.

Những chữ in đậm là do tự ý của người dịch).

 

Chính vì “Năm 2000 là một Thời Điểm Hồng Aân hết sức đặc biệt và hơn bao giờ hết” để Giáo Hội có thể “giúp cho con cái mình có dịp lãnh nhận tối đa Hồng Aân Thiên Chúa” như vừa nhận định phản ánh đúng lời Đức Thánh Cha trên đây, mà qua Sắc Dụ “Mầu Nhiệm Nhập Thể” (SD/MNNT) ngày 29/11/1998, Đức Thánh Cha đã long trọng công bố và truyền dạy về việc mở đóng Thời Điểm Hồng Ân và cách thức khai mạc Thời Điểm Hồng Aân vô tiền khoáng hậu có một không hai trong lịch sử Giáo Hội này như sau:

 

        “Ta chỉ thị sẽ phải Mừng Kỷ Niệm Đại Thể Năm 2000 bắt đầu vào Lễ Vọng Giáng Sinh năm 1999, bằng việc mở cửa thánh của Vương Cung Thánh Đường Phêrô ở Vatican. Chớ gì Giáng Sinh 1999 đối với mọi người là một lễ đầy ánh sáng, một dạo khúc cho một cảm nghiệm sâu xa về ân sủng và tình thương của Thiên Chúa, một dạo khúc sẽ được tiếp tục cho tới khi kết thúc Năm Mừng Kỷ Niệm vào ngày Lễ Hiển Linh của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, 6/1/2001”

(SD/MNNT: 6)

 

Ngài còn cẩn thận cắt nghĩa rõ ràng ý nghĩa của việc mở cửa năm thánh (mà lần đầu tiên đã được thực hiện tại Vương Cung Thánh Đường Chúa Cứu Thế Rất Thánh ở Lateranô năm 1423) này đúng như mục đích của Thời Điểm Hồng Aân cho một cuộc mừng kỷ niệm cứu chuộc như sau:

 

        Việc mở cửa thánh này gợi lên cho thấy một cuộc vượt từ tội lỗi đến ân sủng mà mọi Kitô hữu được kêu gọi để hoàn thành... Việc nhấn mạnh đến cánh cửa là để nhắc lại trách nhiệm của mỗi tín hữu trong việc phải vượt qua ngưỡng cửa của nó. Việc vượt qua ngưỡng cửa tức là việc tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa; đó là việc kiên cường đức tin nơi Người để sống một sự sống mới Người đã ban cho chúng ta. Nó là việc quyết định sử dụng tự do để chọn lựa cũng như để can đảm gạt bỏ tất cả mọi sự, với ý thức rằng cái mình sẽ được là sự sống thần linh (x.Mt.13:44-46). Chính trong tinh thần này mà Giáo Hoàng là người đầu tiên sẽ bước qua cửa thánh vào nửa đêm về sáng ngày 24 rạng 25 tháng 12 năm 1999

(SD/MNNT: 8)

 

Vì “việc mở cửa thánh này gợi lên cho thấy một cuộc vượt từ tội lỗi đến ân sủng” mà bên trong cửa thánh này là cả một kho tàng của lòng xót thương, một lòng xót thương của một người “Cha giầu lòng thương xót” (2Cor.1:3) chẳng những thứ tha tội lỗi mà còn thứ tha cả tai vạ đáng bị trừng phạt bởi tội lỗi nữa, một kho tàng xót thương được mở ra cho những ai tin tưởng tìm về với “Đấng trọn lành trên trời” (Mt.5:48) trong những lúc như Thời Điểm Hồng Ân là Đại Năm Thánh 2000 này:

 

        “... Ân xá là một trong những yếu tố cấu tạo nên Cuộc Mừng Kỷ Niệm. Aân xá là biểu hiệu mức độ viên mãn của tình thương Thiên Chúa, Đấng hiến ban cho mọi người tình yêu của Ngài, được diễn đạt qua việc thứ tha tội lỗi. Việc làm hòa với Thiên Chúa không có nghĩa là không còn những hậu qủa lưu tồn của tội lỗi mà chúng ta cần phải thanh tẩy nữa. Chính vì thế ân xá mới trở thành quan trọng, vì nó là một diễn đạt cho ‘tất cả tặng ân của tình thương Thiên Chúa’ (Sắc Dụ Aperite Portas Redemptori ngày 6/1/1983 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II). Nhờ ân xá, tội nhân thống hối được xá giải hình phạt tạm bởi tội đã được thứ tha vì có lỗi

 (SD/MNNT: 9)

 

Như thế, ý nghĩa đích thực của Thời Điểm Hồng Aân đối với chung con người trần gian chúng ta cũng như đối với riêng thành phần Kitô hữu tin tưởng chúng ta là con cái Thiên Chúa trong lòng Giáo Hội Chúa Kitô, như đầu bài đã nhận định, ở tại việc chúng ta cần phải nhận biết và yêu mến Thiên Chúa là Đấng đã yêu chúng ta trước, thì Năm Thánh 2000 mới thực sự trở nên Thời Điểm Hồng Aân cho chúng ta và của chúng ta, đúng như lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã xác quyết:

 

        Tự bản chất của mình, Năm Thánh là thời điểm chúng ta được kêu gọi để cải thiện đời sống

(SD/MNNT: 11)

 

Chính vì thế, trong giai đoạn dọn mừng Năm Thánh 2000 xa (1994-1996) cũng như gần (1997-1999), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II luôn nhắc nhở và nhấn mạnh với con cái mình ý nghĩa cải thiện thiết yếu và cấp bách này, chẳng hạn qua những lần tiêu biểu sau đây:

 

        “Cánh cửa thánh của cuộc mừng năm 2000 phải là một biểu hiệu rộng hơn cánh cửa của các cuộc mừng trước đây, bởi vì, nhân loại trong khi tiến đến đích điểm này phải bỏ lại sau lưng không phải chỉ một thế kỷ mà cả một ngàn năm. Thế nên, Giáo Hội phải thực hiện cuộc vượt qua này với một ý thức rõ ràng về những gì đã xẩy ra cho Giáo Hội trong 10 thế kỷ qua. Giáo Hội không thể nào bước qua ngưỡng cửa của một thiên niên mới mà không thôi thúc con cái mình, nhờ việc thống hối, thanh tẩy những lỗi lầm qúa khứ cũng như những bất trung, bất nhất và hành động chậm chạp. Công nhận những yếu đuối qúa khứ là một hành động tự trọng và can đảm, giúp chúng ta tăng cường đức tin, làm cho chúng ta tỉnh táo để đối diện với những cám dỗ và thử thách hiện tại, cũng như để đương đầu với chúng”

(TT/NNTBĐĐ: 33)

 

        Cuộc Mừng Năm 2000, trước hết, là một lời kêu mời khẩn thiết tất cả mọi người Kitô hữu trong việc tái quyết tâm thánh hóa cuộc sống.

 

(Sứ điệp ngày 9-11-1996 gửi Hội Nghị Quốc Tế lần thứ 7 của tổ chức

The Catholic Fraternity of Covenant Communities and Fellowships;

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 20/11/1996).

 

        Nỗ lực cần phải có cho việc tổ chức bề ngoài thì đáng khen; thế nhưng nó phải được kèm theo một cuộc sửa soạn nội tâm để dọn lòng đón nhận các tặng ân của Chúa. Trước hết, chúng ta phải nhận thức lại cảm quan về Thiên Chúa, và phải công nhận vai trò chủ tể của Ngài trên tạo vật cũng như trong lịch sử. Điều này sẽ đưa chúng ta tới việc tái xét mà mỗi người chúng ta, bằng một xác tín chân thành và yêu mến, phải qui hướng tư tưởng và chọn lựa của mình theo lòng mong ước trong việc tìm kiếm sự viên trọn của đức ái siêu nhiên”.

 

 (ngỏ lời ngày 12/2/1998 với đại biểu sửa soạn cho Năm Thánh 2000;

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 11-3-1998).

 

        Việc tưởng niệm ngàn năm giáng sinh của Chúa Kitô đưa chúng ta đến tâm điểm của mầu nhiệm Cứu Chuộc: ‘Apparuit gratia Dei et Salvatoris nostri Jesu Christi’ (Ti.2:13). Chính Thiên Chúa là Đấng kêu gọi tất cả mọi dân tộc không trừ ai, để chia sẻ những hoa trái của công cuộc cứu chuộc đạt được và lan truyền khắp trái đất nhờ tác động mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần. Cuộc Mừng Kỷ Niệm Đại Thể kêu gọi chúng ta sống lại giây phút ân sủng này, đồng thời nhận thức rằng tặng ân cứu chuộc phải được kèm theo bằng việc cải thiện cõi lòng để làm cho con người hòa giải với Chúa Cha và trở về với niềm hiệp thông của tình yêu Ngài”.

 

 (ngỏ lời ngày 12/2/1998 với đại biểu sửa soạn cho Năm Thánh 2000;

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 11-3-1998).

 

         “Cuộc Mừng Kỷ Niệm là một biến cố của Giáo Hội theo sự quan phòng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tự bản chất của mình, cuộc mừng kỷ niệm này không phải là cùng đích mà chỉ là phương tiện – trong việc long trọng cử hành tưởng niệm mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, ơn cứu độ của chúng ta – để thôi thúc Kitô hữu cải thiện và canh tân nội tâm. Được kiên cường trong đức tin, họ mới có thể công bố sứ điệp Phúc Âm bằng cả tấm lòng nhiệt thành, và mới chứng tỏ cho thấy rằng việc chấp nhận Phúc Âm là đường lối để dựng xây một thế giới càng nhân bản hơn nhờ ở Kitô giáo”.

 

(ngỏ lời ngày 12/2/1998 với đại biểu sửa soạn cho Năm Thánh 2000;

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 11-3-1998).

 

        “Đức bác ái cũng phải trở nên một đại lộ dẫn chúng ta đến đích điểm Đại Năm Thánh. Để đến được điểm hẹn này, chúng ta cần phải làm sao đối diện với chính mình và thực hiện một cuộc khảo sát gắt gao lương tâm của mình, một điều kiện không thể châm chước cho việc cải thiện sâu xa, một việc cải thiện có thể làm biến đổi đời sống của chúng ta và ban cho nó một ý nghĩa đích thực, khiến cho thành phần tín hữu có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức mình, và yêu thương tha nhân như bản thân mình (x.Lk.10:27)”

 

 

(sứ điệp gửi giới trẻ Công Giáo thế giới ngày 26-11-1995,

 The Pope Speaks, vol 41, No. 3 May/June 1996)

 

Tuy nhiên, để có thể cải thiện một cách hoàn toàn, rõ ràng và chính xác hơn, Đức Thánh Cha đã nêu lên những câu hỏi giúp con cái mình tự vấn như sau:

 

        Vì thế, Cuộc Mừng Kỷ Niệm thôi thúc mỗi người giáo dân Kitô hữu tự vấn mình bằng một số câu hỏi căn bản: Tôi đã sống Bí Tích Rửa Tội ra sao? Tôi đang đáp lại ơn gọi của tôi như thế nào? Tôi đã sống Bí Tích Thêm Sức ra sao? Tôi đã sinh hoa kết trái chưa cho các tặng ân và đoàn sủng của Thần Linh? Chúa Kitô có luôn luôn là ‘Ngài’ trong cuộc sống của tôi hay chăng? Tôi có là một phần tử hoàn toàn và gắn bó với Giáo Hội là mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo như ý của Đấng Sáng Lập và như được thể hiện theo Truyền Thống lưu tồn của Giáo Hội không? Trong những chọn lựa của mình, tôi có trung thành với chân lý được Huấn Quyền Giáo Hội truyền dạy chăng? Cuộc sống hôn nhân, gia đình, nghề nghiệp của tôi có thấm nhuần giáo huấn của Chúa Kitô không? Việc tôi dấn thân làm việc xã hội và chính trị có dựa vào các nguyên tắc Phúc Aâm và học thuyết xã hội của Giáo Hội chăng? Tôi đã đóng góp gì trong việc kiến tạo những lối sống xứng với con người hơn cũng như trong việc hội nhập Phúc Aâm vào lòng những biến động cả thể đang diễn ra hiện nay chưa?”

 

(ngỏ lời ngày 1-3-1999 với Hội Đồng Tòa Thánh về Giáo Dân;

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 10-3-1999).

 

Lý do tại sao con người phải kỹ lưỡng vấn tâm để có thể thực hiện một cuộc cải thiện hoàn toàn, rõ ràng và chính xác như được Đức Thánh Cha gợi ý trên đây đó là vì tình trạng sống đạo của thành phần con cái Giáo Hội mà ngài đã nhận thấy một cách đau lòng thế này:

 

        Chúng ta làm sao có thể bỏ qua được sự kiện bất hạnh là có nhiều Kitô hữu quên đi hứa quyết rửa tội của mình bằng việc sống trong tình trạng khô đạo, chiều theo việc hòa nhập với thế giới đã bị tục hóa? Làm sao chúng ta không thể kể đến những tín hữu, trong lúc chủ động theo đường lối riêng của mình nơi các cộng đồng giáo hội, bị kéo theo trào lưu tương đối của luồng văn hóa hiện đại và cảm thấy thứ văn hóa này khó lòng mà chấp nhận được các giáo huấn về tín lý và luân lý của Giáo Hội, các giáo huấn mà mọi tín hữu được mời gọi để gìn giữ”.

 

(ngỏ lời ngày 1-3-1999 với Hội Đồng Tòa Thánh về Giáo Dân;

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 10-3-1999).

 

Vậy, để có thể phục hồi cơn khủng hoảng đức tin này nơi con cái của mình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi thực hiện đặc biệt một trong những phương thế thực tế và hết sức khẩn thiết hiện nay đó là việc học hỏi giáo lý, như sau:

 

        “Thiếu học hỏi giáo lý hay kém gắn bó với đức tin làm cho thành phần đã lãnh nhận bí tích rửa tội không chuẩn bị để đương đầu với những nguy hiểm thực sự của trào lưu tục hóa, của chủ trương luân lý tương đối hay của khunh hướng khô khan nguội lạnh, sẽ đưa đến một nguy cơ tai hại trong việc làm mất đi lòng đạo đức sâu xa được thể hiện tốt lành nơi những việc Kitô giáo tôn sùng thịnh hành cao qúi và tốt lành. Bởi thế Tôi đề nghị với qúi huynh, trước Cuộc Mừng Kỷ Niệm Đại Thể, hãy đề xướng một giai đoạn mới về giáo lý để giúp cho con người đương thời nhận thức được mầu nhiệm Thiên Chúa cũng như mầu nhiệm riêng của họ, và để dưỡng nuôi việc cầu nguyện, chúc tụng cũng như tạ ơn về tặng ân Nhập Thể của Chúa Giêsu Kitô cùng công cuộc cứu chuộc của Người”

 

(ngỏ lời ngày 19/2/1998 với Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha đợt 3

dịp các ngài sang chầu ĐTC và viếng mộ hai Thánh Phêrô và Phaolô

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 11-3-1999).

 

Chính Đức Thánh Cha đã làm gương trong việc đích thân giảng dạy giáo lý cho con cái mình vào các ngày thứ tư hằng tuần tại Đại Thính Đường Phaolô, kể từ ngày 5-9-1979, ngay trước khi ngài ban bố Tông Huấn Catechesi Tradendae về Giáo Lý trong Thời Đại của Chúng Ta ngày 16-10-1979, để ôn lại cho con cái tất cả những gì thuộc về đức tin chân chính và tông truyền của Kitô giáo đang trở nên thách đố khủng khiếp cho trí óc con người văn minh tân tiến về khoa học thực nghiệm và kỹ thuật tiện nghi, nhất là phần giáo lý về chính Năm Thánh 2000 để dọn lòng cho họ.

 

        “Năm 2000 giờ đây đã gần kề. Bởi thế Tôi muốn lợi dụng dịp này để qui những bài giáo lý Thứ Tư hằng tuần về những đề tài sẽ trực tiếp giúp chúng ta hiểu biết hơn ý nghĩa của Cuộc Mừng Kỷ Niệm, nhờ đó chúng ta sống Cuộc Mừng Kỷ Niệm này một cách thấm thía hơn. Trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Tôi đã xin tất cả mọi phần tử của Giáo Hội ‘ hãy mở lòng mình ra cho những khơi động của Thần Linh’, để sửa soạn ‘cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm với một đức tin mới mẻ và một sự tham gia bao rộng’ (đoạn 59). Lời kêu mời này càng ngày càng trở nên khẩn thiết hơn khi ngày lịch sử đó đang tiến tới. Thật vậy, biến cố này diễn ra như một lằn mức phân chia giữa hai thiên niên với một giai đoạn mới đang bừng lên tương lai của Giáo Hội cũng như của nhân loại. Chúng ta phải sửa soạn cho biến cố này trong ánh sáng của đức tin. Đúng thế, đối với các tín hữu, cuộc vượt qua từ đệ nhị sang đệ tam thiên niên không phải chỉ là một chặng đường trong cuộc tiến hành không ngừng nghỉ của thời gian, mà còn là một dịp đáng kể để nhận thức rõ hơn dự án của Thiên Chúa đang giãi bày trong lịch sử của loài người”.

 

(Lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mở đầu cho loạt bài giáo lý Năm Thánh 2000, được bắt đầu từ ngày 19-11-1997; 

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 26-11-1997).

 

Như thế, từ phương diện tiêu cực là việc cải thiện đời sống để có thể tối đa lãnh hưởng tình thương của Thiên Chúa trong Thời Điểm Hồng Ân, Kitô hữu đã tiến thẳng vào chính trọng tâm của Thời Điểm Hồng Ân:

 

        Mục tiêu chính yếu của Cuộc Mừng Kỷ Niệm, đó là ‘việc kiên cường đức tin cũng như kiên cường chứng tá của Kitô hữu’ (Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 42)”

 

(Lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô

trong bài Giáo Lý Năm Thánh 2000 ngày 18/3/1998;

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 25-3-1998).

 

Đ

úng thế, để củng cố đức tin cho con cái của mình, nhất là vào trước Thời Điểm Hồng Ân Năm Thánh 2000 này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khai triển loạt bài giáo lý chủ đề rất sâu xa bao rộng. Ngài đã đi từ lãnh vực nhân loại học siêu nhiên, sang lãnh vực thần học đức tin, đến lãnh vực vũ trụ học siêu việt.

 

Về lãnh vực nhân loại học siêu nhiên, Đức Thánh Cha đã dùng 5 năm trời (1979-1984) để khai triển đề tài “tình yêu con người theo ý định của Thiên Chúa”. Đề tài này có thể được chia ra làm ba phần, phần nhất được bắt đầu bằng một loạt 23 bài giáo lý về sự hiệp nhất nguyên thủy giữa người nam và người nữ theo sách Khởi Nguyên, vào các ngày thứ tư hằng tuần trong khoảng thời gian từ ngày 5-9-1979 đến ngày 2-4-1980. Sau đó chuyển sang phần hai với 41 bài giáo lý về phúc cho ai có lòng trong sạch theo bài giảng trên núi và thư thánh Phaolô, thời khoảng từ ngày 16-4-1980 đến ngày 6-5-1981. Trước khi sang phần ba, loạt bài giáo lý bị gián đoạn vì sức khỏe của Đức Thánh Cha sau khi ngài bị ám sát hụt từ ngày 13-5-1981, và đã được xen kẽ bằng 3 bài chia sẻ của ngài, thời khoảng từ ngày 14-10-1981 đến 28-10-1981, liên quan đến việc ngài bị ám sát và lòng thứ tha. Cuối cùng phần ba đã được bắt đầu với 50 bài về thần học hôn nhân và độc thân theo ý nghĩa phục sinh của thân xác, thời khoảng từ ngày 11-11-1981 đến ngày 4-7-1984. Loạt bài giáo lý về tài “tình yêu con người theo ý định của Thiên Chúa” cuối cùng được kết thúc bằng 12 bài, thời khoảng từ ngày 11-7 đến 21-11-1984, về việc ôn lại Thông Điệp “Sự Sống Con Người” của Đức Thánh Phaolô VI.

 

Về lãnh vực thần học đức tin, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã diễn giải toàn bộ giáo lý theo Kinh Tin Kính, trong đó có phần về Thiên Chúa Ba Ngôi, về Giáo Hội và Đức Maria. Riêng phần về Thiên Chúa Ba Ngôi là đối tượng cho 3 năm cuối cùng của riêng thế kỷ 20 và của chung thiên niên thứ hai, Đức Thánh Cha đã hướng dẫn về Chúa Cha với 58 bài, vào các ngày thứ tư hằng tuần trong thời khoảng từ ngày 20-3-1985 đến ngày 20-8-1986, Chúa Con với 99 bài, thời khoảng từ ngày 27-8-1986 tới ngày 19-4-1989, và Chúa Thánh Thần với 80 bài, thời khoảng từ ngày 26-4-1989 đến ngày 3-7-1991. Tuy nhiên, trước khi đi thẳng vào chủ đề Chúa Ba Ngôi, Đức Thánh Cha đã dẫn nhập bộ Giáo Lý Kinh Tin Kính này bằng 8 bài, từ ngày 5-12-1984 đến 13-3-1985, về những chân lý đức tin và luân lý Kitô giáo trong toàn bộ giáo lý.

 

Về lãnh vực vũ trụ học siêu việt, theo Đức Thánh Cha, vấn đề thật ra đã nằm ngay ở phần kết của kinh Tin Kính, liên quan đến việc phục sinh của thân xác cũng như đến sự sống đời đời. Căn cứ vào đó, cũng có thể nói phần về nhân loại học siêu nhiên đã được nằm ngay ở đầu kinh Tin Kính, liên quan đến việc Thiên Chúa tạo dựng, trong đó có con người, một con người cần phải được tân tạo trong Giáo Hội mà mô phạm tuyệt hảo là Mẹ Maria. Bởi thế, sau loạt bài Giáo Lý về Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Thánh Cha đã bắt đầu bằng loạt bài Giáo Lý về Giáo Hội và về Mẹ Maria. Về Giáo Hội, có 137 bài giáo lý vào các ngày thứ tư hằng tuần kéo dài trong thời khoảng từ ngày 10-7-1991 đến ngày 3û0-8-1995, và về Mẹ Maria, có 70 bài giáo lý kéo dài trong thời khoảng từ ngày 6-9-1995 tới ngày 12-11-1997. Vừa chấm dứt loạt bài về Mẹ Maria, Đức Thánh Cha đã khéo rẽ ngang sang loạt bài Giáo Lý Hướng Về Năm Thánh 2000, bắt đầu từ thứ tư 19-11-1997.

 

Loạt bài Giáo Lý Mừng Năm Thánh 2000 (9/11/1997-15/12/1999 đã được hai nguyệt san Dân Chúa Mỹ Châu và Hiệp Nhất của Cộng Đồng CG/VN Giáo Phận Orange phổ biến từ tháng 1-1998) có ba phần: phần về Chúa Giêsu Kitô (từ bài 1 đến 15), về Chúa Thánh Thần (17-43), và về Chúa Cha (44-79), phần nào cũng được kết bằng một bài giáo lý về Mẹ Maria (bài 15, 43, 79). Như thế, Giáo Lý Mừng Năm Thánh 2000 chính là Giáo Lý cùng Mẹ Maria hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi, một Đích Điểm đã được Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phác họa (x đoạn 39) cho Giáo Hội nhắm tới, qua một tiến trình ba năm sửa soạn gần: 1997 kính Chúa Giêsu Kitô, 1998 kính Chúa Thánh Thần và 1999 kính Chúa Cha, để Long Trọng Mừng Năm Thánh 2000, Năm Hồng Ân Thiên Chúa (x. Is 61:2; Lk 4:19).

 

(Bài Dẫn Nhập Mở Đầu này, trừ phần cuối trực tiếp liên quan đến loạt bài giáo lý của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đã được phổ biến vào tháng 5/1999 trên Nguyệt San Hiệp Nhất của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange, California Hoa Kỳ, cũng như trên Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu)

 

 

TGP Los Angeles ngày 25-3-1999.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL.